Những pha "tự xòe" của "mèo hoang" F4F trên tàu sân bay

Tuân Việt |

(Soha.vn) - Dưới đây là bộ sưu tập những tai nạn kinh hoàng của tiêm kích "mèo hoang" F4F Wildcat trên tàu sân bay vào nửa sau Thế chiến thứ 2.

 	Grumman F4F Wildcat (Mèo hoang) là máy bay tiêm kích hộ tống trang bị cho tàu sân bay, bắt đầu đưa vào phục vụ cho cả Hải quân Mỹ lẫn Hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1940.

Grumman F4F Wildcat (Mèo hoang) là máy bay tiêm kích hộ tống trang bị cho tàu sân bay, bắt đầu đưa vào phục vụ cho cả Hải quân Mỹ lẫn Hải quân Hoàng gia Anh vào năm 1940.

 	Mặc dù được Hải quân Anh sử dụng trong chiến đấu trước tiên, nhưng Wildcat lại trở thành máy bay tiêm kích chủ lực trên tàu sân bay trong một năm rưỡi đầu của Hải quân Mỹ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến II.

Mặc dù được Hải quân Anh sử dụng trong chiến đấu trước tiên, nhưng Wildcat lại trở thành máy bay tiêm kích chủ lực trên tàu sân bay trong một năm rưỡi đầu của Hải quân Mỹ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến II.

 	Một phiên bản cải tiến FM Wildcat tiếp tục phục vụ cho đến hết chiến tranh trên các tàu sân bay hộ tống, nơi không thể sử dụng những chiếc tiêm kích mới to và nặng hơn.

Một phiên bản cải tiến FM Wildcat tiếp tục phục vụ cho đến hết chiến tranh trên các tàu sân bay hộ tống, nơi không thể sử dụng những chiếc tiêm kích mới to và nặng hơn.

 	F4F được Hải quân Hoàng gia Anh dùng thay thế tạm thời cho tiêm kích Fairey Fulmar, phiên bản dành cho Hải quân.

F4F được Hải quân Hoàng gia Anh dùng thay thế tạm thời cho tiêm kích Fairey Fulmar, phiên bản dành cho Hải quân.

 	Trên chiến trường Châu Âu, Wildcat ghi được chiến công đầu tiên ngày 24 tháng 12 năm 1940, khi chiếc Martlet (tên gọi khi phục vụ tại Anh) xuất phát từ đất liền đã tiêu diệt 1 chiếc máy bay ném bom Junkers Ju 88 của Đức bên trên căn cứ Hải quân Scapa Flow.

Trên chiến trường Châu Âu, Wildcat ghi được chiến công đầu tiên ngày 24 tháng 12 năm 1940, khi chiếc Martlet (tên gọi khi phục vụ tại Anh) xuất phát từ đất liền đã tiêu diệt 1 chiếc máy bay ném bom Junkers Ju 88 của Đức bên trên căn cứ Hải quân Scapa Flow.

 	Tiêm kích F4F cũng tham gia tác chiến trên những chiếc tàu sân bay hộ tống nhỏ hơn. Khoảng giữa năm 1941, 6 chiếc F4F cất cánh từ tàu HMS Audacity, cải biến từ tàu buôn cũ của Đức và bắn rơi nhiều chiếc máy bay ném bom Fw 200 Condor của Đức Quốc Xã trong những chiến dịch hộ tống vận tải. Đây cũng là lần đầu tiên tiêm kích Wildcat được xuất kích từ hạm đội.

Tiêm kích F4F cũng tham gia tác chiến trên những chiếc tàu sân bay hộ tống nhỏ hơn. Khoảng giữa năm 1941, 6 chiếc F4F cất cánh từ tàu HMS Audacity, cải biến từ tàu buôn cũ của Đức và bắn rơi nhiều chiếc máy bay ném bom Fw 200 Condor của Đức Quốc Xã trong những chiến dịch hộ tống vận tải. Đây cũng là lần đầu tiên tiêm kích Wildcat được xuất kích từ hạm đội.

 	Trong giai đoạn đầu của Mặt trận Thái Bình Dương, các máy bay Wildcat thường bị vượt qua bởi đối thủ chính là tiêm kích Mitsubishi Zero của Nhật. Tuy nhiên, các tiêm kích F4F Wildcat vẫn được sử dụng vì khả năng chịu đựng các tổn hại khá tốt.

Trong giai đoạn đầu của Mặt trận Thái Bình Dương, các máy bay Wildcat thường bị vượt qua bởi đối thủ chính là tiêm kích Mitsubishi Zero của Nhật. Tuy nhiên, các tiêm kích F4F Wildcat vẫn được sử dụng vì khả năng chịu đựng các tổn hại khá tốt.

 	Với vỏ giáp khá nặng và các thùng nhiên liệu tự hàn kín, khung máy bay của Grumman có thể sống sót cao hơn đối thủ Nhật nhẹ cân và không được bọc giáp.

Với vỏ giáp khá nặng và các thùng nhiên liệu tự hàn kín, khung máy bay của Grumman có thể sống sót cao hơn đối thủ Nhật nhẹ cân và không được bọc giáp.

 	Các tiêm kích F4F Wildcat vân tiếp tục chiến đấu trên mặt trận Thái Bình Dương cho tới năm 1943, khi được thay thế bởi những máy bay tiêm kích hiện đại hơn như F6F Hellcat và F4U Corsair, có khả năng chiến đấu sòng phẳng với Mitsubishi Zero.

Các tiêm kích F4F Wildcat vẫn tiếp tục chiến đấu trên mặt trận Thái Bình Dương cho tới năm 1943, khi được thay thế bởi những máy bay tiêm kích hiện đại hơn như F6F Hellcat và F4U Corsair, có khả năng chiến đấu sòng phẳng với Mitsubishi Zero.

Trong suốt cuộc chiến, F4F và FM của Hải quân và Thủy quân Lục chiến Mỹ đã thực 15.553 phi vụ ( trong đó có 14.027 phi vụ cất cánh từ tàu sân bay), tiêu diệt 1.327 máy bay địch và thiệt hại 191 chiếc Wildcat (tỉ lệ thắng-bại nói chung là 6,9:1). Đúng như vai trò tiêm kích hộ tống của nó, Wildcat chỉ thả 154 tấn bom trong suốt cuộc chiến.

Máy bay tiêm kích Grumman F4F-1 được thiết kế ban đầu là kiểu cánh kép, đã tỏ ra yếu kém so với các thiết kế cạnh tranh, nên cần một thiết kế hoàn toàn mới kiểu cánh đơn đặt tên là F4F-2.

 
 	Thiết kế này vẫn không cạnh tranh được với kiểu F2A Buffalo của Brewster vốn đã được thắng thầu đặt hàng của Hải quân Mỹ, nhưng khi kiểu F4F-3 được phát triển với động cơ Pratt & Whitney Twin Wasp R-1830-76 mạnh hơn, có siêu tăng áp 2 tầng, nó mới chứng tỏ tiềm năng thực sự.

Thiết kế này vẫn không cạnh tranh được với kiểu F2A Buffalo của Brewster vốn đã được thắng thầu đặt hàng của Hải quân Mỹ, nhưng khi kiểu F4F-3 được phát triển với động cơ Pratt & Whitney Twin Wasp R-1830-76 mạnh hơn, có siêu tăng áp 2 tầng, nó mới chứng tỏ tiềm năng thực sự.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

Đường dây nóng: 0943 113 999

Soha
Báo lỗi cho Soha

*Vui lòng nhập đủ thông tin email hoặc số điện thoại